Powered By Blogger

Thứ Ba, 3 tháng 4, 2012

Sứ mệnh lịch sử của Giai cấp công nhân qua Ba tác phẩm của Mác - Ăngghen

Giai cấp công nhân ngày nay đang có sự biến động và thay đổi lớn trong cách biểu hiện của nó, giai cấp công nhân không còn là một giai cấp được gọi là “Vô sản”nữa mà là một giai cấp ít nhiều đã có không ít tư liệu sản xuất và của cải. Mặc dù giai cấp công nhân không còn đúng nghĩa như trước nữa nhưng xét về mặt bản chất nó vẫn là nó, giai cấp công nhân vẫn là giai cấp đóng vai trò lãnh đạo mọi cuộc cách mạng của mình bằng cách liên minh với các tầng lớp khác thong qua đội tiên phong của mình đó chính là Đảng Cộng sản. Với ý nghĩa đó đã chứng minh được sứ mệnh lịch sử ấy của giai cấp công nhân vẫn không hề lay chuyển vì những lời xuyên tạc của bọn phản động tư sản, giai cấp công nhân ngày một trưởng thành thong qua sự rèn luyện của chính những cuộc đấu tranh kiên cường của chính mình và ngày một giác ngộ ý thức cách mạng chân chính của chủ nghĩa Mác – Lênin. Và sứ mệnh lịch sử ấy của giai cấp công nhân đã được C.Mác khái quát từng thời kì thong qua ba tác phẩm mà ta sẽ đi phân tích dưới đây;


I. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thông qua tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 -1850 (C.Mác)”.
Tác phẩm này là một tác phẩm thể hiện rõ quan điểm tiến bộ nhất về sự phát triễn trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Tây Âu nói riêng và công nhân quốc tế nói chung của C. Mác, tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành từng bước của giai cấp công nhân qua các cuộc chiến tranh nỗ ra ở Pháp 1848 -1850.
Giữa thế kỉ XIX ở Pháp giai cấp vô sản mới hình thành số lượng chưa đông, đang trở thành lực lượng chính trị độc lập nhưng trình độ tư tưởng và tổ chức còn rất thấp, mâu thuẩn giwuax giai cấp vô sản và giai cấp tư sản chưa sâu sắc.
Trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp từ năm 1848 -1850 vai trò của giai cấp vô sản ngày càng được khẳng định :
Cuộc cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai năm 1848 ở pháp nhằm tiêu diệt chế độ quân chủ, thiết lập nền cộng hòa tư sản. Đặc điểm quan trọng là cuộc cách mạng nổ ra trong sự mâu thuẩn giữa giai cấp vô sản và tư sản phát triển gay gắt. Và trong cuộc cách mạng này giai cấp vô sản giữ vai trò quyết định, có thế thấy rõ giai cấp công nhân qua cuộc cách mạng này đã nhận rõ sứ mệnh lịch sử của mình thông qua sự đàn áp của chế độ quân chủ đối với xã hội, tuy nhiên vẫn còn thiếu một chính Đảng riêng cho riêng mình. Bởi vậy, sau khi giành thắng lợi giai cấp tư sản Pháp đã đi ngược lại với lời hứa của mình trước đó. Mác nói : ““Nhưng vài ngày sau vì chính phủ lâm thời đã quên mất lời hứa của mình và hình như đã hoàn toàn không để ý gì tới giai cấp vô sản, nên một khối đông đảo gồm 20.000 công nhân đã tiến đến tòa thị chính và hô to “Phải tổ chức công ăn việc làm! phải thành lập một bộ lao động riêng!””(sđd, 1, tr 27). Như thế có thể nói nhờ giai cấp tư sản mà mâu thuẩn giữa giai cấp vô sản và tư sản mới ngày càng sâu sắc hơn, một cuộc cách mạng chính nghĩa mới thực sự nổ ra.
Cuộc cách mạng của quần chúng nhân tháng 2 năm 1848 đã giành thắng lợi thành lập chính quyền lâm thời trong đó đại đa số là đại biểu của giai cấp tư sản, với áp lực của quần chúng đứng đầu là giai cấp vô sản đòi thiết lập nền cộng hòa và giãm một giờ làm. Trước tình hình này giai cấp vô sản ra sức đàn áp tiếp tục bằng việc ban hành chính sách tăng thuế trực thu 45% và gây chia rẽ giữa công nhân và nông dân, làm cho nông dân coi công nhấn là những kẻ lãng phí, ăn chơi hưởng lạc bằng mồ hôi nước mắt của mình. Cuộc cách mạng của giai cấp vô sản vẫn tiếp tục diễn ra đòi thiết lập nền quân chủ lập hiến nhưng bị tư sản nhục mạ, khiêu khích cuối cùng cuộc đấu tranh thất bại đẩm máu diễn ra cho giai cấp vô sản. Mác nhận định, sở dĩ giai cấp công nhân pháp bị thất bại là do không có một chính đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh của họ đến nơi đến chốn, giai cấp công nhân có đủ khả năng để giành được thắng lợi nhưng họ chưa có đủ cơ sở lý luận cách mạng để giành thắng lợi do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân luôn luôn gắn liền với giai cấp tư sản và bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản, từ sự phát triển của công – thương nghiệp tư bản chủ nghĩa…: “Khi một giai cấp là đại biểu tập trung cho lợi ích cách mạng xã hội mà nổi dậy thì nó tìm thấy ngay lập tức rằng chính hoàn cảnh của chính nó là nội dung và lý do của hoạt động cách mạng của nó: tiêu diệt kẻ thù, thực hiện những biện pháp phù hợp với yêu cầu của cuộc đấu tranh, và chính những hậu quả của hành động cảu chính bản thân nó sẽ đẩy nó tiến xa hơn nữa. Giai cấp công nhân pháp chưa đạt được đến chỗ đó, nó chua có khả năng thực hiện cuộc cách mạng của chính nó”.(sdd, 1,tr 29)
Thực sự giai cấp vô sản đang còn mơ hồ, chưa nhận rõ bộ mặt của giai cấp tư sản đến khi thất bại, giai cấp vô sản mới thật sự rũ bỏ được những tàn tích, ấu trĩ để trưởng thành, nhận rõ được bộ mặt của giai cấp tư sản. Vì vậy, giai cấp vô sản phải cần đoàn kết, liên minh với nông dân và các tầng lớp khác.
Chính giai cấp tư sản đã buộc giai cấp vô sản Paris phải làm cuộc cách mạng tháng Sáu, và điều đó đã quyết định đến sự thất bại của giai cấp vô sản, để cho giai cấp vô sản không còn tin vào nền cộng hòa tư sản nữa, mọi sự thất bại đó sẽ là bài học quý báo nhất cho giai cấp vô sản. Họ phải thực sự giác ngộ ý thức cách mạng lớn lao.Mặc dù, cách mạng tháng 2 thất bại tuy nhiên giai cấp vô sản đã nhận thức được bộ mặt thật của giai cấp tư sản, đến cách mạng tháng Sáu sẽ trưởng thành hơn.
Có thể nói tác phẩm này là một sự manh nha cho cách mạng vô sản, phát triễn tư tưởng về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu để giai cấp vô sản tự giải phóng mình, giải phóng xã hội và con người : “Chủ nghĩa xã hội này là lời tuyên bố cách mạng không ngừng, là chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản, coi đó là giai đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ những khác biệt giai cấp nói chung, xóa bỏ cả những quan hệ sản xuất làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xóa bỏ những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó, để đi đến cải biến tất cả những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ sản xuất đó”. Cách mạng tháng sáu thất bại tiếp theo sẽ tạo tiền đề cho một cuộc cách mạng mới, giai cấp đó chếm lấy vũ đài chính trị của mình “ Cách mạng đã chết, cách mạng muôn năm”.
Chương II, Mác tiếp tục đưa ra những lý luận mang tính chất bước ngặc cuộc đấu tranh của công nhân Pháp – ngày 13 tháng 6 năm 1849, vẫn là những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Pháp dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, của nền cộng hòa tư sản. Vai trò của giai cấp vô sản thật sự lớn trong cuộc cách mạng của giai cấp tư sản chống nền quân chủ.Quốc hội được bầu ra với thành phần đa số là giai cấp tư sản (500 ghế), phái Núi (tiểu tư sản) tổ chức biểu tình bị đàn áp của quân đội Đảng trật tự, Lu – i – bô – na - pác – tơ lợi dụng mâu thuẩn mua chuột quân đội tước vũ khí đội vệ binh quốc gia, giải tán quốc hội lên làm quốc hội. Để lấy lại chính quyền giai cấp vô sản buộc phải liên minh với giai cấp nông dân và tiểu tư sản, đại biểu cho lợi ích lớn lao của xã hội.
Chương III, Mác cho thấy sự thất bại của cách mạng tháng Sáu năm 1849, đó chính là sự khởi đầu cho một cuộc cách mạng mới của giai cấp vô sản và là tiền đề cho một sự thống trị của giai cấp công nhân xóa bỏ Quốc hội lập hiến, giai cấp vô sản đã dần lôi kéo được các tầng lớp khác về phía mình, đối lập công khai với chế độ cộng hòa chính thức và bị nền cộng hòa này coi là kẻ thù ( sdd, 1,tr 123), đảng của phái dân chủ xã hội được xem là đảng vô chính phủ, Mác đã đưa những nhiệm vụ chính của Đảng này được gọi là “Chủ nghĩa xã hội” : xóa bỏ thuế quan bảo hộ, đem lại quyền lợi chính đáng cho đại đa số nhân dân.
Chương IV, việc bải bỏ chế độ phổ thông đầu phiếu được thay thế bằng luật tuyển cử do phái Núi và tiểu tư sản đứng đầu, tính tất yếu trong giai đoạn này là sự phát triển của công – thương nghiệp dẫn tới cuộc đấu tranh tiếp theo của giai cấp công nhân nỗ ra.
Tóm lại, từ thực tiễn cách mạng 1848 -1850, giai cấp vô sản đã rút ra được bài học kinh nghệm cho chính mình, từ những thất bại ấy, giai cấp vô sản dần nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình đó là phải xóa bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản và giải phóng nhân dân lao động và xã hội mới được hình thành đó là chủ nghĩa xã hội trong tương lai :
- Thông qua đấu tranh cách mạng đã làm bộc lộ rõ nét bản chất chính trị của tất cả các giai cấp trong xã hội. Giai cấp vô sản mặc dù còn non yếu, song vẫn lộ rõ bản chất cách mạng triệt để thông qua nhiều lần thất bại của mình từ tháng Hai năm 1848 đến tháng Năm 1850, đó là sự không triệt để của chế độ cộng hòa tư sản hay Quốc hội lập hiến.giai cấp tư sản đã mất dần vai trò cách mạng của mình trong cách mạng dân chủ tư sản và thể hiện tính chất nữa vời, phản cách mạng. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành lực lượng to lớn, có tinh thần cách mạng cao nhưng có lúc bị dao động chống lại giai cấp vô sản.
- Vấn đề thứ hai là nguyên nhân tại sao giai cấp vố sản vẫn chưa thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, đầu tiên do họ chưa có được một chính đảng vững mạnh về lý luận để lãnh đạo sáng suốt, đó chính là Đảng cộng sản, chưa có sự liên minh giữa công nhân với nông dân và các tầng lớp khác. Mác rút ra như sau, “ giai cấp vô sản phải liên minh với giai cấp nông dân thì cuộc cách mạng vô sản mới thực hiện được bài đồng ca, mà nếu không có được bài đồng ca này thì trong tất cả các quốc gia nông dân, bài đơn ca của cách mạng vô sản sẽ trở thành một bài ca ai điếu”.(sdd, 2, tr 22)
- Trong cách mạng đấu tranh giai cấp vô sản đã sáng tạo ra phương pháp cách mạng là dùng bạo lực. Họ đã kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để chống lại các thế lực phản động.
- Cuộc cách mạng này tuy không phải là một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng đó chính là một bước chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội sau này của giai cấp vô sản.
- Sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản cần phải có lý luận khoa học soi đường thì mới đi đến thắng lợi, đó chính là chủ nghĩa Mác – “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
II. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thông qua tác phẩm “Ngày 18 tháng sương mù của Lu-i Bô-na-pác-tơ(C.Mác)”
Tác phẩm tiếp tục giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn chiến tranh cách mạng Pháp, kế thừa tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 – 1850”.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ngày càng được thực hiện và thấy rõ hơn thông qua những cuộc đấu tranh tiếp theo của công – nông Pháp, vấn đề chuyên chính vô sản phải được thực hiện, xóa bỏ nhà nước cũ của Lu - I - bô - na - Pác -tơ
Khi phân tích các sự kiện lịch sử và tổng kết kinh nghiệm cách mạng từ năm 1848 đến năm 1851 ở Pháp, Mác nêu lên những nguyên lý lý luận về đấu tranh giai cấp với tính cách là động lực của lịch sử và tính hạn chế, mâu thuẫn của nền dân chủ tư sản; về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản và liên minh công - nông.
Đến giữa thế kỷ XIX, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chưa phát triển cao, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản công nghiệp và giai cấp tư sản công nghiệp chưa trở thành chủ yếu. Giai cấp vô sản chưa phát triển đầy đủ về số lượng và chất lượng, về nhận thức lý luận và tổ chức, thiếu vắng một chính đảng lãnh đạo và liên minh với nông dân. Mác phát triển ý niệm về khả năng và sự cần thiết giai cấp vô sản phải đoàn kết với quần chúng lao động bị bóc lột để chống lại giai cấp tư sản thành nguyên lý về liên minh giữa hai giai cấp công nhân và nông dân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Phần khái quát hóa quan trọng nhất về lý luận trong tác phẩm này là sự phát triển tư tưởng về nhà nước và cách mạng, nhất là về chuyên chính vô sản. Mác phân biệt xu hướng phát triển của cách mạng tư sản với cách mạng vô sản. Cách mạng tư sản thế kỷ XVIII có xu hướng đi lên, còn cách mạng tư sản thế kỷ XIX lại có xu hướng đi xuống, vì nó không triệt để. Trái lại, cách mạng vô sản thế kỷ XIX thất bại chỉ là tạm thời, thông qua những thất bại tạm thời ấy giai cấp vô sản có thể khắc phục những sai lầm, ảo tưởng để tiến lên. Cuộc cách mạng năm 1789 và các giai đoạn 1793 - 1795, 1815 - 1830, 1848 - 1851 chính là quá trình hình thành và hoàn thiện của nhà nước tư sản. Nhà nước tư sản, dưới hình thức quân chủ hay cộng hòa, thì bản chất của nó vẫn là nền chuyên chính của giai cấp tư sản. Lần đầu tiên Mác nêu ra luận điểm giai cấp vô sản không được tiếp nhận bộ máy nhà nước cũ, mà phải đập tan bộ máy nhà nước ấy đi.
Mác chỉ ra những điều kiện khách quan của sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là sự phát triển đầy đủ của nền sản xuất đại nhiệm vụ cách mạng vô sản là đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị cũ; liên minh công công nghiệp.Đây là một quy luật của cách mạng vô sản ở tất cả các nước, nhất là đối với những nước nông dân còn chiếm số đông.
Tóm lại, tác phẩm này đã đánh dấu tiếp theo sự trưởng thành của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống nhà nước cũ, thiết lập một nền chuyên chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của công nhân đã mang bản chất quốc tế không còn của riêng nước Pháp nữa. Đây là thời kì của “tuyên ngôn của đảng cộng sản” đi vào long giai cấp công nhân cùng với sự ra đời của chủ nghĩa Mác ở Đức, đây sẽ là ngọn cờ lý luận lớn nhất dành cho cuộc cách mạng xã hội lớn lao nhất của giai cấp công nhân tất cả vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội hiện thực. Đập tan mộng tưởng không thể thực hiện được của các nhà Không tưởng pháp hồi đầu thế kỉ XIX.
III. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thông qua tác phẩm “Vấn đề nông dân ở Pháp – Đức”
Nông dân trong xã hội phong kiến Tây Âu (Pháp – Đức) bị tướt đoạt hết ruộng đất chuyển hóa dần sang giai cấp công nhân nông nghiệp, lúc này phong trào công nhân ở Tây Âu theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa mới hình thành. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành thủ tiêu mọi tàn dư ấy của Napôlêông III( Lu - I - bô - na - pác - tơ), đem lại quyền lợi mới cho người nông dân tiểu nông nghiệp.
Chương I, V.I.Lênin nêu lên sự khác biệt giữa người tiểu nông và người vô sản là ở chổ còn sở hữu những tư liệu lao động, trên cơ sở đó leenin tiếp tục nêu ra tính tất yếu là giai cấp vô sản phải đứng lên lật đổ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện thời, đem lại lợi ích chính đáng cho nông dân nhất là về nông nghiệp, tuy vậy tư bản đã làm cho nông dân mất phần nữa sản xuất kinh doanh của mình, “Mất mùa, thuế má, tài sản bị đem phân chia, kiện tụng” tất yếu sẽ dẫn đến phá sản và trở thành người vô sản “xét rằng nếu tình trạng đó – mà đặc trưng là chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ của nông dân, không tránh khỏi bị tiêu vong, thì chủ nghĩa không làm cho nó chóng bị tiêu vong nữa, vì nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội là không phải tách rời tài sản khỏi lao động, hai yếu tố này bị phân chia sẽ gây ra cảnh cùng khổ cho nhân dân rơi xuống thành người vô sản”.
Trước đây, nước Pháp đã làm được điểu mà người nông dân Pháp mong chờ nhưng giờ đây lại không làm được, nông dân mất đất công xã cũ, do vậy lúc này Đảng XHCN theo cương lĩnh Mácxit đề ra cương lĩnh ruồn đất (1892), hình thành sứ mệnh lớn láo của giai cấp công nhân, xây dựng chế độ mới bắt đầu từ cương lĩnh này : Đem lại quyền lợi cho công nhân nông nghiệp và khôi phục đất công xã cũ. Tất cả những yêu sách ấy đề ra điều là vì nhân dân nhưng đòi hỏi giai cấp công nhân phải làm tròn sứ mệnh của mình thông qua chính đảng của mỉnh soi đường dẫn lối. Đảng công nhân muốn giành thắng lợi phải kết hợp với nông dân ở nông thôn giành chính quyền chếm lấy tư liệu sản xuất về tay giai cấp mình, bải bỏ tư hữu ban hành chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
V.I.Lênin đưa ra nhiệm vụ chủ nghĩa xã hội phải làm đối với nông nhân, điều này quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân : “ làm sao cho người nông dân có ruộng đất, vốn tự cày cấy lấy, giữ được quyền sở hữu mãnh ruộng của mỉnh khỏi bị cơ quan thuế vụ và kẻ cho vay nặng lãi xâm phạm và khỏi bị bọn chúa đất mới xâm chiếm”; “Xóa bỏ tất cả mọi thứ thuế gián tiếp và thay thuế trực tiếp thành thuế lũy tiến đánh vào những khoản thu nhập trên 3.000 phrăng trở lên”; “tự do săn bắn và đánh cá, chữa bệnh không mất tiền và bán thuốc theo giá vốn; phụ cấp cho gia đình những người lính trù bị…”(sdd,3, tr 729 -732)
V.I.Lênin nêu ra cách công nhân đấu tranh giành thắng lợi trong cách mạng : Đảng dân chủ xã hội xuất hiện và giành chính quyền bởi vậy công nhân phải chuyển từ thành thị về nông thôn, tư bản đã biến nông dân thành thị thành thù địch với công nhân xã hội chủ nghĩa.
Ở chương 2, Tính tất yếu sự diệt vong của tiểu nông hình thành tầng lớp mới xóa bỏ địa chủ, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa , xác định nhiệm vụ của đảng công nhân lúc này là giải thích cho nông dân hiểu “chừng nào còn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, thì chừng ấy người nông dân còn tuyệt vọng”(sdd, 1, tr 739). Sứ mệnh của Đảng công nhân lúc này là làm sao bênh vực cho người nông dân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sẽ thực hiện được tuy nhiên vấn đề là thời gian chính muồi đã đến thì mới tiến hành được.
IV. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân qua ba tác phẩm
Tóm lại, thông qua ba tác phẩm trên C. Mác, Ăngghen và V.I.Lênin đã phân tích sự biến động và tổng kết kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân – nông dân ở Pháp – Đức một cách cụ thể thông qua những diễn biến chủ yếu của cách mạng tháng 2/2848, 6/1849 đến 2850 và đến vấn đề nông dân ở pháp và đức, tất cả cho thấy sự lớn mạnh của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, bỡi lẽ đây chính là giai đoạn có sự ra đời của một học thuyết giá trị lịch sử và thực tiễn lớn lao hồi những năm 40 của thế kỉ XIX, “học thuyết Mácxit” ra đời cùng với “tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Đây là cương lĩnh đầu tiên của giai cấp vô sản, ra đời trước cách mạng 1848 ở Pháp, đây là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của công nhân, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được hình thành từ tác phẩm mang lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác và Ăngghen soạn thảo. Từ ba tác phẩm ta có thể rút ra được những bài học đấu tranh lớn lao cho giai cấp công nhân :
- Giai cấp công nhân ở Tây Âu nói riêng và quốc tế nói chung đã thực sự từng bước trưởng thành từ cách mạng dân chủ tư sản ở Pháp – Đức.
- Giai cấp công nhân đã giác ngộ được ý thức giai cấp của mình là một giai cấp lãnh đạo cách mạng, đại diện cho toàn thể quần chúng nhân dân dứng lên giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản.
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cách mạng 1848 -1850 không thực hiện được đó là họ chưa có đủ sức mạnh để làm được điều đó, họ chưa có một chính đảng soi đường dẫn lối, đó chính là chủ nghĩa Mác và thông qua tuyên ngôn của Đảng cộng sản, chưa liên hệ với nông dân và các tầng lớp khác, còn bị lệ thuộc vào tư sản.
- Có thể nói qua đây thấy được giai cấp công nhân trưởng thành từ đấu tranh thực tiễn mà ra, đặc biệt là từ “thất bại”, giống như tiêu đề trong các tác phẩm của C.Mác, có lúc bị ảo tưởng, lu mờ sứ mệnh của mình rồi vùng dậy.




Thông qua ba tác phẩm trên ta cũng thấy rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ngày một được biểu hiện rõ nét hơn qua từng cuộc đấu tranh, từng thời kì cách mạng, giai cấp công nhân là một giai cấp xuất hiện trong lòng xã hội tư bản đầy áp bứt bất công và bằng cuộc cách mạng của mình thông qua chính đảng đó là Đảng Cộng sản đã lật đổ được ách thống trị của chủ nghĩa tư bản, thiết lập một nền chuyên chính vô sản không còn áp bức bóc lột nữa, xã hội – xã hội chủ nghĩa được hình thành. C.Mác đã cho ta thấy để giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình thì yếu tố đại đoàn kết là vấn đề rất quan trọng để đi đến thắng lợi của mọi cuộc cách mạng, và đó là vai trò của giai cấp nông dân nông nghiệp trong chủ nghĩa tư bản chứng minh được những điều đó, với những biểu hiện như ngày nay đã chứng tỏ giai cấp công nhân đã ngày càng được trưởng thành về mọi mặt số lượng lẫn chất lượng, ý thức giác ngộ cách mạng cao….Từ thực tế sự biến động của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay sẽ đưa đến một kết luận rõ nét về giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử ấy vẫn được giai cấp công nhân nắm giữ và làm tròn. Sự đóng góp của giai cấp công nhân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc nước ta đã làm sáng rõ hơn lý luận ấy của C.Mác.


1. C.Mác – Ph. Ăngghen toàn tập – tập 22, Nxbctqg, Hà Nội-
2. Nguyễn Xuân Sơn, Một số vấn đề cơ bản về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hà Nội – 1999.
3. Vũ Dương Ninh – Nguyễn Văn Hồng, Lịch sử thế giới cận đại, Nxbgd – 2005
4. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxbctqg, Hà Nội – 2004
5. Giới thiệu tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngnghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Nxb CTQG, H, 1999.

Học tập đức tính tiết kiệm của Bác Hồ

Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta, người là linh hồn của cách mạng Việt Nam. Người đã để lại cho chúng ta những giá trị tinh thần vô giá, trong đó đặc biệt là tư tưởng, tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng để lớp lớp các thế hệ Việt Nam học tập và noi theo . Hội nghị Trung ương 12, khóa IX đã chỉ rõ: “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội ta” và chủ trương tổ chức cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng và trong toàn xã hội. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được tổ chức theo chỉ thị số 06 – CT/TW, ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị khóa X đã có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục đạo đức, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong công cuộc xây dựng đất nước, khi mà hiện nay có một bộ phận nhỏ những cán bộ, đảng viên bị tha hóa, biến chất, đặt nặng chủ nghĩa cá nhân lên trên chủ nghĩa tập thể, cố tình làm trái với chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dẫn đến làm mất lòng tin ở nhân dân. Tư tưởng và đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta, là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và noi theo. Rèn luyện và tu dưỡng đạo đức là vấn đề quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời, Thiếu một phương, thì không thành đất, Thiếu một đức, thì không thành người”. Điều đó cho ta thấy việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức là vấn đề quan tâm hàng đầu của Bác. Theo Bác, là người phải có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính như là lẽ tự nhiên, như “trời”, như “đất”. Trong bài viết này tôi xin đề cập đến chữ “kiệm” của Bác trong bức tranh sinh động về cuộc sống, công việc thật của Bác qua một số câu chuyện kể về Người. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, tiết kiệm “là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, mà những việc lợi ích cho đồng bào, cho tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Tiết kiệm là tích cực. “Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết hiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực chứ không phải là tiêu cực”. Tiết kiệm là để phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc, mục đích là để tăng tiền vốn để xây dựng đất nước và vì mục đích chính trị cuối cùng đưa nước ta sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nghèo nàn và lạc hậu. Chỉ một vấn đề này thôi, chúng ta cũng thấy rõ tấm gương của bác thật sáng ngời, suốt đời của Bác chỉ lo cho dân, cho nước. Bác cho rằng không những tiết kiệm cả của cải, mà còn phải tiết kiệm cả thời gian và sức lực, bởi của cải nếu hết còn có thể làm ra được, còn thời gian đã qua đi, không bao giờ quay trở lại, song song với vấn đề này chúng ta hãy suy nghĩ đến chính cuộc sống của mỗi con người chúng ta, đừng để thời gian trôi qua cuộc sống chúng ta một cách vô ý nghĩa khi ta không tạo dựng cho mình một cuộc sống có giá trị. Muốn tiết kiệm thời gian, bất kì việc gì, nghề gì cũng phải chăm chỉ, làm nhanh, chuyện hôm nay làm được, không để ngày mai. Không nên ngồi lê, nói chuyện phiếm, làm mất thời giờ của người khác. Tiết kiệm không ở đâu xa mà ngay trong chính cuộc sống của mỗi chúng ta. Bác Hồ đã tiết kiệm từ những việc làm rất nhỏ cho đến những việc làm rất lớn trong cuộc sống hằng ngày. Điều có thể thấy trước nhất ở Bác đó là tiết kiệm trong chi tiêu, các đồng chí ở gần Bác đều cho biết Bác rất tiết kiệm. Có đôi tất rách đã vá đi, vá lại mấy lần Bác vẫn không dùng tất mới. Bác nói: Cái gì còn dùng được thì nên dùng, bỏ đi không nên, có quả chuối hơi nẫu đi, anh bộ đội không ăn, Bác lấy dao tách bỏ phần bị nẫu đi rồi bóc ăn ngon lành. Bác nói: Ở chiến khu có được quả chuối này cũng đã quý lắm rồi, câu nói ấy làm cho anh bộ đội ân hận mãi. Dù ở cương vị là một chủ tịch nước nhưng Bác chưa bao giờ có tiền như anh em cán bộ, chiến sĩ công tác quanh Bác. Thực tế lịch sử cho thấy, trong những năm hoạt động ở nước ngoài, tình hình đời sống của Bác rất khó khăn nhưng Bác vẫn cố gắng làm việc ở nhiều nghề khác nhau, số tiền dành được phục vụ cho cách mạng. Về phần mình, “Người tiết kiệm để dành cho nhân dân, cứ mỗi tuần nhịn ăn một bữa để dành gạo cho dân đang đói; dùng tiền tiết kiệm được của riêng mình để tặng bộ đội. Thời kì chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, Bác đã yêu cầu thư kí rút tiền tiết kiệm của Bác để mua nước ngọt gửi cho bộ đội trực chiến trên các chiến trường miền Bắc” . Với những vấn đề trên càng khiến cho cả dân tộc Việt Nam, cả thế giới quý Bác, tự hào về Bác. Cách ứng xử của Bác với tiền tài, với cái ăn, cái mặc, với cơ sở vật chất nói chung không phải đòi hỏi cao mà chúng ta không học tập được, đâu có phải là tòa thánh uy nghiêm mà chúng ta không đặt chân lên được, dù là bật thềm thứ nhất? Ở Bác Hồ, ta thấy đức tính giản dị luôn đi đôi với tính tiết kiệm trong cách ăn mặc, phong cách làm việc, cư xử với mọi người xung quanh Bác, vẫn vài ba trái cà trong mỗi bữa ăn, vẫn bộ quần áo Kaki màu trắng cũ ấy, trên đầu vẫn cái nón cũ. Bác vẫn giản dị như thế cho dù Bác là một vị chủ tịch Nước. Do đó, trong mỗi con dân Việt Nam cần phải thấm nhuần tấm gương về đức tính giản dị và tiết kiệm của người trong từng việc làm của bản thân. Bác giản dị đến mức tưởng chừng như không giản dị, Bác luôn hòa mình vào cuộc sống nhân nhân, các đồng chí và đồng bào của mình, điều đó được thể hiện qua 1 lần “đồng chí liên lạc công văn 10 giờ đêm mới đến, Bác gọi mang ra một bát chè đậu đen thìa con, rồi Bác đem ra sẻ một nữa cho đồng chí liên lạc, đồng chí rơi cả nước mắt vì tấm lòng thương yêu đồng đội của Bác” . Công việc của Bác rất nhiều đến nỗi bữa ăn tối của Bác cũng chỉ là một cặp bánh giò là đủ. Đối với Bác “thời gian quý báo lắm”, đây chính là mẫu chuyện nêu toát lên đức tính tiết kiệm về thời gian trong công việc của Bác cũng như qua mẫu chuyện chúng ta học tập thêm những lời dặn dò của Bác về tinh thần tiết kiệm thời gian. Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khóa V trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam, Người thẳng thắn góp ý: “trong giấy mời tới đây nói 8 giờ mới bắt đầu, bây giờ là 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời gian quý báo lắm”. Một lần khác, Bác và một đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đầu một cuộc họp. Bác hỏi: chú đến chậm mấy phút, anh cán bộ đáp thưa Bác, chậm 10 phút ạ, chú tính thế không đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây. Qua câu chuyện về thời gian và tìm hiểu thêm qua cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, điều mà ta thấy rõ cái mà Bác Hồ ghét nhất, “ghét cay, ghét vào tận tâm” là các thói quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí tiền bạc và thời gian của nhân dân. Thời gian vô cùng lớn lao trong cuộc sống nhỏ bé của con người. Ngay từ những ngày tháng thơ ấu cắp sách đến trường, bài học đầu tiên chúng ta được các thầy cô dạy vẫn là bài học về thời gian “Đi học phải đúng giờ”, bài học đơn giản đó lại không là một chuyện nhỏ đối với Bác. Những câu chuyện về tính tiết kiệm trong thời gian nêu trên giúp ta ngày càng thấm nhuần hơn nữa những đức tính cao cả của Người, những lời dạy của Bác được Đảng và Nhà nước ta vận dụng một cách đúng đắn vào công cuộc cải cách hành chính tại các cơ quan ban ngành, các đoàn thể. Bên cạnh đó, vẫn còn một số bộ phận, cán bộ trong các cơ quan hành chính nhũng nhiễu, tham ô của công, lãng phí thời gian, sức lực của nhân dân, thói quan liêu hách dịch, cửa quyền vẫn còn diễn ra ở nhiều địa phương. Bác không những làm gương sáng tiết kiệm cho dân noi theo, mà còn giáo dục tinh thần tiết kiệm cho dân, điển hình trong cuộc gặp cán bộ ngoại giao: Một lần, khi nói chuyện với cán bộ ngoại giao về nước học tập Nghị quyết của Đảng, Bác đến thăm và căn dặn. Nhân dân ta đang gian khổ chiến đấu để chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Vì vậy, mỗi cán bộ, mỗi người dân phải tiết kiệm vì sự nghiệp cách mạng. Làm công tác ngoại giao, tuy phải có phần hình thức cho coi được, song nội dung vẫn là quan trọng hơn. Cái đẹp của hình thức là ở chỗ sạch sẽ, gọn gàng, giản dị, chứ không phải ở chỗ xa hoa, lãng phí. Cần làm sao không tốn kém mà lịch sự. Các cô, các chú đi công tác nước ngoài càng phải chú ý điều này. Vì hoàn cảnh ở nước ngoài thường dễ làm cho mình sinh ra hoang phí, tham ô, hủ hóa, thậm chí có khi sa ngã, mất cả tư cách người cách mạng. các cô, các chú phải luôn luôn tự kiểm điểm và giúp cán bộ mình cùng kiểm điểm. Và đến cuối đời mình, Người đã để lại một bài học vô cùng xúc động: “Thực hiện ý kiến nhắc nhở của Bác Thông tấn xã Việt Nam(TTXVN) hằng ngày gửi bản tin để Bác đọc, đều in hai mặt giấy, In rônêô, nên bản tin hay bị nhòe, Bác vẫn cố gắng đọc. Sang năm 1969, thấy Bác không được khỏe, TTXVN gửi bản tin in một mặt. Xem xong, những tư liệu, tin tức cần thiết, Bác giữ lại, còn thì gửi cho văn phòng để gấp thành “phong bì tiết kiệm”… Gần bốn tháng trước khi qua đời, ngày 10 – 05 – 1969, Bác viết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc, gồm một trang viết tay, vào mặt sau tờ tin Tham khảo đặc biệt ra ngày 3 – 5 – 1969. Bác viết những dòng lịch sử và vô cùng thiêng liêng ấy bằng mực xanh và chữ sửa sau đó bằng mực đỏ. Những chữ mực đỏ, nét run run, không cứng cáp như Bác thường viết. Có lẽ Bác sửa lần cuối Di chúc, khi thấy trong người không còn khỏe. Nhìn những dòng chữ ấy trên mặt giấy tiết kiệm, mọi người đều xúc động và ngày càng kính trọng Bác bao nhiêu lại càng thương Bác bấy nhiêu. Hồ Chí Minh không muốn vì mình mà nhân dân lãng phí tiền bạc, thời gian. Trước lúc vĩnh biệt chúng ta, Người dặn: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân” , chỉ có trái tim nhân ái của một vị lãnh tụ mới viết nên được những lời như thế đó. Qua những mẩu chuyện kể trên về đức tính tiết kiệm của Bác rất đáng cho chúng ta suy ngẫm và học tập. Chúng ta phải ý thức tiết kiệm và giáo dục những người xung quanh ta biết tiết kiệm. Tiết kiệm từ trong gia đình đến nơi công sở, từ những việc nhỏ nhặt như sử dụng điện, nước, văn phòng phẩm; tiết kiệm trong việc sử dụng các trang thiết bị bằng cách ý thức bảo quản tốt để sử dụng được bền lâu; tiết kiệm thời gian thể hiện qua việc họp hành, làm việc đúng giờ, thường xuyên cải tiến phương pháp làm việc để nâng cao hiệu suất lao động. Là những thanh niên trong giai đoạn hiện nay cần phải nhận thức tính tất yếu của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phải luôn đi đầu trong học tập, tham gia các hoạt động phong trào, thực hành tiết kiệm. Trong phạm vi trường Đại học Bạc Liêu, mỗi sinh viên của trường cần luôn nêu cao tinh thần tiết kiệm của Bác trong sinh hoạt hằng ngày cũng như trong học tập, có ý thức tiết kiệm thời gian, đi học đúng giờ, tiêu xài đúng chổ, đúng lúc, không hoang phí của cải tiền bạc của gia đình, ủng hộ đồng bào miền trung bị lũ lụt, sóng thần động đất ở Nhật Bản, tiết kiệm tiền giúp bạn vượt khó....Cán bộ, công nhân viên và giảng viên trường ta cũng làm gương sáng cho sinh viên khi nêu cao tinh thần tiết kiệm trong công sở, giáo dục tính tiết kiệm cho sinh viên, không liên hoan lu bù, sử dụng văn phòng phẩm tiết kiệm, làm việc đúng giờ giấc, sống giản dị....Thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của UBND tỉnh Bạc Liêu, sớm xây dựng nhà trường ngày một phát triển vững mạnh trong tương lai (2011 – 2015), việc tiết kiệm là một trong những việc thiết thực nhất của Cán bộ, công nhân viên, giảng viên và sinh viên để thực hiện thành công sự chỉ đạo đó. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Bác Hồ không chỉ ở trong trái tim của mỗi chúng ta, mà còn ở trong từng cử chỉ, việc làm và hành động của mỗi người”. Với lòng kính yêu và tôn trọng đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, chúng ta phải học tập và thực hành đức tính tiết kiệm, giản dị của Bác suốt đời, cũng như câu nói của Lênin “Học, học nữa, học mãi”, tiết kiệm sẽ giúp chúng ta biết tôn trọng hơn những giá trị lao động của con người, và từ đó giúp chúng ta giàu có hơn về vật chất lẫn tinh thần, để từ đó chúng ta cùng nhau xây dựng nước Việt Nam ngày càng văn minh, giàu đẹp và vững mạnh theo tâm nguyện của Bác. Như vậy, có thể nói việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với chúng ta là một việc làm cần kíp. Thông qua đó, giúp chúng ta gần hơn với Bác Hồ kính yêu. Những tư tưởng của người, những tấm gương thật của người, hiện lên như một chòm sao sáng chói trong đêm trăng soi rọi xuống thế hệ con cháu của Người. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một tấm gương sống trong sạch, tiết kiệm, điều này đã được Báo chí nước ngoài nhiều lần nhắc đến, nhà báo Mỹ Ddavit Hanbơcstơn viết: “Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kì lạ của thời đại này – hơi giống Giăngdi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam, Ông là một người Việt Nam lịch sự, khiêm tốn, giản dị…”. Đặc biệt, bản thân tôi thật sự cảm phục tinh thần ấy của Bác, nguyện sẽ dõi theo chân Bác, học tập những đức tính quý báu của Bác, nhất là đức tính “tiết kiệm” để sớm tự hoàn thiện mình, là tấm gương cho các thế hệ sau, sau nữa nối tiếp. Góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng nước Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.